Quá trình ra đời Súng ngắn M1911

Trong những năm cuối cùng của Chiến tranh Hoa Kỳ - Philippines, Lục quân Hoa Kỳ cũng như nhiều binh chủng khác của quân đội Hoa Kỳ đều sử dụng 2 mẫu súng ổ quay cũ kĩ, lạc hậu là Smith & Wesson Model 3 (biệt danh là Schofield) từ năm 1870 cùng với khẩu Colt SAA (Colt Single Action Army) từ năm 1874. Tuy các khẩu súng ổ quay này bắn khá nhanh nhưng các binh sĩ Mỹ thất vọng về số lượng đạn quá ít (chỉ có 6 viên đạn trong ổ đạn xoay của súng) cũng như uy lực của loại đạn.38 quá yếu khiến cho các sĩ quan Mỹ gần như chịu chết khi phải giao chiến với các chiến binh người Moro sử dụng ma túy loại rất nặng trong khi chiến đấu khiến cho cơ thể họ gần như không thấy đau đớn khi bị trúng đạn. Ngoài ra, thao tác nạp đạn của 2 khẩu súng này rất phức tạp. Điều này tạo ra khoảng thời gian chết rất lớn cho sĩ quan Mỹ khi chiến đấu ở cự li gần. Trong một cuộc thi tuyển súng ngắn, khẩu M1911 - một mẫu thiết kế của ông John Browning được hãng Coltsản xuất đã thắng cuộc và được chọn lựa. Khẩu súng của hãng Colt không hề bị vấn đề gì trong khi mẫu của đối thủ Savage lại bị kẹt đến 28 viên đạn.

Từ cuộc chiến ở Philippines cho đến Chiến tranh thế giới thứ haiChiến tranh Việt Nam, khẩu M1911/M1911A1 đã là một "món hàng" ưa thích của sĩ quan và cả lính tráng cấp thấp, cũng như một biểu tượng "lính Mỹ dùng vũ khí Mỹ", một điều mà khẩu Beretta 92 của Ý không đạt được - đó là tinh thần quốc gia của người Mỹ.

Đã có khoảng hơn 2,7 triệu khẩu (gồm cả loại M1911A1) được sản xuất và có rất nhiều phiên bản khác nhau sử dụng nhièu loại đạn. Phiên bản mới nhất là khẩu MEU 1911 SOCOM dùng bởi Thủy Quân Lục Chiến. Súng còn được bán ra cho thường dân, và được tạo ra để phù hợp hơn 10 kiểu đạn khác nhau.